Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa
THÁNH VỊNH CN
XXXIII TN B ( Tv15, 5.8-11) 18 11 2018
Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa
5 Lạy CHÚA, Chúa là phần sản
nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
8 Con luôn nhớ có Ngài trước
mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
9 Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ,
và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
10 Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc
con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
1 Lạy Chúa Trời, bên Ngài, con
đang ẩn náu.
11 Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
Trong các câu chúng ta đọc hôm nay, mọi
sự có vẻ giản dị!
Lạy Chúa, Chúa của con, con chỉ yêu Chúa
mà thôi…đại loại như một cuộc «hôn nhân» hoàn hảo.
Có một bài thánh ca bất hủ, của
những người nô lệ thế kỷ XVII múc từ thánh vịnh này: «…Lạy Chúa, Chúa là
gia nghiệp đời con…».
Nhưng thật ra bài thánh vịnh này thể hiện
một cuộc đấu
tranh nội tâm khủng khiếp, cuộc đấu tranh của sự tín trung với đức
tin thật: Đúng như điều chúng ta đọc trong Bài Đọc 1, khi Đa-ni-en cổ vũ các
anh em mình đừng
chối bỏ đức tin, mặc cho sự bách hại của vua Hy-lạp An-ti-ô-khô
Ê-pi-pha-nê.
Sự đấu tranh cho lòng tín trung là số
phận của Ít-ra-en ngay từ thuở ban đầu.
Sở dĩ Mô-sê trong thời Xuất Hành đã tỏ ra
rất cứng rắn về phương diện này, vì tai hoạ thờ phượng bụt thần luôn là một
thực tế.
Chúng ta còn nhớ thời kỳ con bê bằng vàng
(Xh 32). Viện cớ ông Mô-sê ở trên núi lâu quá chưa xuống, dân chúng vội quên
tất cả những lời hứa tốt đẹp. « Mọi điều ĐỨC CHÚA phán bảo,
chúng tôi xin làm theo » (Xh 19, 8). Và Thiên Chúa đã bảo
đừng tạc những pho tượng, rất nguy hiểm…vâng, thế nhưng, không thoải mái cho
lắm, khó thấy, xa xôi, không ai biết gì về Thiên Chúa này, không biết phải đối
xử ra sao?
Thế rồi, vì Mô-sê lâu quá không xuống
núi, mọi người vội vã thuyết phục A-ha-ron và đúc một con bê bằng vàng.
Sau đó khi vào xứ Ca-na-an, hiểm họa thờ
phượng bụt thần trở nên thường xuyên: Khi mọi sự không như mong muốn, khi có
chiến tranh, có nạn đói, bệnh dịch…có hai sự an toàn thay vì là một, có phải
hơn không?
Khi không còn biết cậy trông vào ai,
người ta có khuynh hướng cầu xin bất cứ thần nào có thể. Chúng ta biết, chuyện
ấy đã xảy ra : Thì đây hồi thế kỷ thứ VIII, vua A-khát đã hiến tế chính
đứa con trai mình cho các thần, vì ông sợ chiến tranh và lòng tin vào Chúa
Ít-ra-en chưa đủ, năm mươi năm sau, người cháu nội của ông là Mơ-na-se cũng làm
như thế.
Các ngôn sứ đã không ngừng đấu tranh
chống lại thờ phượng bụt thần trong suốt lịch sử Thánh Kinh.
Tại sao thế?
Vì Chúa muốn chúng ta tự do, và bụt thần
là một thứ nô lệ tệ hại nhất: Vì nó dẫn tới những hành động ghê gớm, không chút
gì thuộc về con người.
Bài thánh vịnh này thể hiện, dưới hình
thức một lời cầu nguyện, lời rao giảng của các ngôn sứ.
Thánh vịnh vang lên như một lời đáp, «xin
vâng» sau lời kêu gọi của ngôn sứ, và cũng là một lời nguyện van xin Chúa giúp
giữ vững lòng tin.
Đây là vài câu trong thánh vịnh không có
trong bài đọc của chúng ta hôm nay:
« Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn
con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. 2 Con thưa cùng CHÚA:
"Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? 3 Còn
thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ, 4 vẫn
gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo.(Không!)
Máu tế thần, con quyết chẳng dâng,
tên của thần, môi con không tụng niệm! » (1-4)
Câu « 3 Còn
thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ, 4 vẫn
gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo » nói lên
nguy cơ ấy có thật.
Ngay cả những người tốt nhất cũng sa ngã
« …Máu tế thần, con quyết chẳng dâng, tên của thần, môi con không
tụng niệm! »:
Đây là nói về các
cuộc tế lễ toàn thiêu người, nhưng không chỉ có thế. Ở Ít-ra-en mọi cử chỉ mọi
việc hành đạo phải độc quyền hướng về Chúa của Giao Ước và chỉ có Ngài mà thôi,
vì Ngài là Chúa hằng sống duy nhất, đấng duy nhất có thể dẫn dắt dân Ngài trên
con đường tự do đầy chông gai.
Điều kiện ấy, Chúa đòi hỏi dân Ngài là
phần đối tác bên phía Thiên Chúa trong Giao Ước, chọn Ít-ra-en:
Chúa đã chọn nhưng không, dân này và mặc
khải cho họ, Thiên Chúa là Chúa thật duy nhất của họ.
Nếu Ít-ra-en đáp lại một cách xứng đáng
ơn gọi ấy, tức là độc quyền gắn bó với Chúa của họ, chỉ khi ấy họ mới chu toàn
sứ vụ làm chứng tá cho Thiên Chúa duy nhất, trước tất cả các dân tộc khác.
Nhưng nếu họ buông tha đi theo thờ phượng
những bụt thần, thế thì họ có thể làm chứng tá cho ai được?
Vì lẽ đó các ngôn sứ luôn có điều đòi hỏi
quan trọng ấy.
Trong bài thánh vịnh này, Ít-ra-en làm
rạng rỡ qui chế rất đặc biệt được Chúa chọn, bằng cách sánh mình như một người
Lê-vi
« 5 Lạy CHÚA,
Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng
con, chính Ngài nắm giữ.6 Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn » (c 5, 6).
Các từ ngữ sản nghiệp - phúc lộc - phần
tuyệt hảo - gia nghiệp, tất cả ám chỉ địa vị đặc biệt của các Lê-vi. Lúc phân
chia xứ Pa-lét-tin cho mười hai chi tộc hậu duệ của Gia-cóp, các thành viên của
chi tộc Lê-vi không có phần: Gia tài của họ là Nhà của Chúa, phụng vụ Thiên
Chúa…
Chúng ta còn nhớ tất cả đời họ dành cho
việc phụng vụ. Họ không có đất đai: huê lợi của họ gồm có những tô thu cho Đền
Thờ, một phần các mùa gặt và thịt cúng cho Đền.
Lòng tín trung (của người Lê-vi và cũng
như dân Ít-ra-en), sự dâng hiến cho việc của Chúa, là những niềm vui lớn :
« 1 Lạy Chúa Trời, bên Ngài, con đang ẩn náu. 11Chúa
sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn
trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! ».
Cụm chữ «hoan lạc chẳng hề vơi» ở đây không
có ngụ ý nói sự phục sinh từng người.
Chúng ta không quên rằng trong các thánh
vịnh, đối tượng không phải một cá nhân nào mà là cả dân tộc Ít-ra-en. Dân tộc
an tâm sống đời đời vì được Chúa hằng sống tuyển chọn.
Chúng ta cũng biết rằng, thời các thánh
vịnh được sáng tác không ai tưởng tượng có thể có một sự phục sinh cá nhân nào.
Cũng như thế, câu : « 10 Vì
Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,không để kẻ hiếu trung này hư nát
trong phần mộ » không phải là lời tuyên xưng cho sự phục sinh
cá nhân mà là lời
biện hộ cho sự sống còn, cả toàn dân.
Dĩ nhiên, về sau - khi đến tiên tri
Đa-ni-en (Bài đọc 1) mọi người bắt đầu tin kẻ chết sống lại, người ta hiểu câu
này như thế.
Về sau nữa, người ta áp dụng câu này cho
Chúa Giê-su Kitô.
Kể từ nay chúng ta có thể hoàn toàn tin
tưởng nói lên :
«9 Vì thế, tâm hồn
con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan…10 Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc
con trong cõi âm ty,…ở bên Ngài, (con chờ một sự) hoan
lạc chẳng hề vơi!
***
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính : Khổng Nhuận
Leave a Comment