Sự giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn




THÁNH VỊNH CN XXX TN B ( Tv125, 1-6) 25 10 2018

Sự giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn

1 Ca khúc lên Đền.
Khi CH
ÚA dẫn tù nhân Xi-on trở về,
ta tưởng m
ình như giữa giấc mơ.

2 Vang vang ngoài miệng câu cười nói,
r
ộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong d
ân ngoại, người ta bàn tán:
"Vi
ệc CHÚA làm cho họ, vĩ đại thay! "
3 Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy m
ình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.
5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
m
ùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
lúc tr
ở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.

Trong bài đọc 1 Chúa nhật hôm nay, Tiên tri Giê-rê-mi-a đã loan báo ngay từ đầu cuộc lưu đày Ba-by-lon, ngày được  hồi hương.
Rõ ràng khi bài Thánh Vịnh này được thảo ra, mọi người đã được trở về: « Khi CHÚA dẫn tù nhân Xi-on trở về ».
Chúng ta biết câu truyện : Cường quốc Ba-by-lon bị bại trận, vị chúa tể mới, vua Ky-rô có một chính sách khác. Khi ông đánh chiếm được Ba-by-lon, năm 538, ông cho tất cả các dân tộc đã bị Na-bu-ko-đô-nô-so đày sang Ba-by-lon làm nô lệ được trở về quê quán.
Dân chúng thành Giê-ru-sa-lem cũng được ân huệ đó như các dân tộc khác. Điều này quá tuyệt vời như một phép lạ, vì thế vua Ky-rô được xem không khác gì  như một thiên sai.
Bài thánh vịnh này gợi lên niềm vui, và xúc cảm của dân chúng được  hồi hương : « ta tưởng mình như giữa giấc mơ. ».
Trong những lúc lưu đày xa quê hương cũng có lúc mơ ngày được  trở về nhưng khi sự việc xảy đến không ai dám tin như thế. Cuộc giải thoát này, đối với dân chúng như một sự hồi sinh.
Trong kiếp lưu đày ở Ba-by-lon, dân tộc họ thật sự gần như bị kết án diệt vong : quên lãng nguồn gốc, cội rễ, tập quán, bởi ảnh hưởng của bụt thần trong môi trường sống.
Để gợi lên sự hồi sinh ấy, tác giả thánh vịnh nêu lên hai hình ảnh thân thương của dân tộc họ, đó là nước và mùa gặt.
Bắt đầu bằng nước : « 4 Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. ». 
Phía nam thành Giê-ru-sa-lem là sa mạc Nê-gép, nhưng khi mùa xuân đến những thác nước nuốt lấy các bờ cát để làm xuất hiện ra hằng hà sa số hoa rực rỡ nở rộ.
Hình ảnh thứ hai, khi hạt lúa được gieo xuống đất, bị thối nát, có vẻ để chết đi…nhưng khi mầm mọc, thì tựa như cuộc tái sinh… :
« 6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng ».
Đây hẳn là những lời ca gợi lại cảnh mùa gặt mới : trong mọi nền văn minh, mùa gặt vẫn là một dịp mừng vui.
Thế nhưng, ý nghĩa sâu xa hơn, đây là dịp sống lại với quê hương, với văn hoá của mình : khi dân chúng trở về cả xứ sống lại.
Câu sau cùng của bài nói lên hoàn toàn ý nghĩa ấy : « 6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng » . 
Nói rõ ra là kiếp nô lệ tù đày đã thuộc về quá khứ : kể từ nay dân chúng vun trồng trên « đất của mình », họ là chủ nhân của chính « mùa gặt của mình ».
«… vai nặng gánh lúa vàng » : Lễ Lều, nguyên thuỷ là một lễ mùa gặt. Chính vì thế trong các nghi lÍt-ra-en có những tục lệ dâng lúa. Hằng năm bài này được hát vào dịp hành hương, vừa lúc đoàn « lên đền » Giê-ru-sa-lem vào dịp Lễ Lều mùa thu.
Nếu chúng ta đọc trong Thánh Kinh, các bài này được xếp vào những « Ca khúc lên đền » ( tức là vào dịp hành hương). Mỗi khi hát bài này, họ tưởng niệm một cuộc leo lên khác, đó là đường về sau bao nhiêu năm lưu đày. 
Nhưng Ít-ra-en, khi gợi lại quá khứ, không phải chỉ vì cái thú nhớ lại lịch sử. Nhưng đây là dịp tạ ơn Thiên Chúa vì những kỳ công của Ngài trong quá khứ - đúng ra phải nói tưởng niệm - nhưng nhất là cơ hội múc lấy nghị lực để vững tin vào công trình tối hậu cho ngày mai. 
Cuộc giải phóng ấy, sự trở về với sự sống ấy, sự kiện có ghi rõ trong lịch sử, nay  trở nên một lý do để tin vào những sự sống lại khác, những cuộc giải phóng khác.
Cũng như trong quá khứ, họ đã ca ngợi cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, dĩ nhiên được ngụ ý ở đây ( ví dụ trong bài có ch« vĩ đại » thường để nói đến cuộc giải thoát khỏi Ai-cập), thì cũng như thế, từ nay họ ca ngợi sự giải phóng, trở về sau cuộc lưu đày Ba-by-lon, họ cầu nguyện Thiên Chúa mau đến ngày được giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn.  
Vì lẽ đó trong lời cảm tạ có lẫn lời cầu nguyện : « 4 Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về ».
Những « tù nhân » này, trước hết là những kẻ còn xa cách, rải rác trong những dân tộc nước ngoài.
Nhưng cũng có nghĩa là mọi người : Ít-ra-en ý thức họ có nhiệm vụ cầu nguyện cho tất cả nhân loại. 
Điều này rất rõ trong câu thứ hai bài thánh vịnh :
« Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc CHÚA làm cho họ, vĩ đại thay! " ».
Không phải một lời của lòng tự phụ : nhưng là lời nhìn nhận sự chọn lựa nhưng không một dân tộc nhỏ bé này của Thiên Chúa, một dân tộc không hơn gì những dân tộc khác ( như sách Đệ Nhị Luật chép).
Đây cũng là một niềm vui truyền giáo, nhìn thấy các dân tộc biết cảm nhận tác động của Thiên Chúa, bước đầu dẫn tới sự trở lại để đi đến được giải thoát.
Sự giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn toàn nhân loại, trong bài gọi là « dân ngoại » - đó là đấng Mê-si-a - ngày Lễ Lều mang một chiều kích đón chờ rất mãnh liệt Đấng Mê-si-a.
Ví dụ như chính trong buổi lễ này, có một cuộc diễu hành khổng lồ với những bó lúa được nói đến trong bài thánh vịnh, mọi người hát « Hô-sa-na » ( có hai nghĩa « Chúa cứu chúng con »và « hãy cứu dân Ngài ») .
Họ cũng hát vang lên câu mọi người đều biết « Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa » ( Mt21,9), đó là lời chúc tụng trước hạn, Đấng Mê-si-a .
Sau bao nhiêu cuộc phiêu lưu của dân tộc ấy, người anh cả chúng ta - như Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô gọi -  xứng đáng để cho chúng ta một bài học cậy trông và  đợi chờ:
Chúng ta hãy tin tưởng vào người : « Chủ mùa gặt » ( Mt 9, 38).
***
Tác giả:  Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures  Socéval Editions

Dịch giả: E. Máccô  Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính : Khổng Nhuận





Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.