CHÚA LÀM NGƯỜI ĐỂ NGƯỜI LÀM CHÚA
CHÚA LÀM NGƯỜI
ĐỂ
NGƯỜI LÀM CHÚA
Bài của Bác Thiện Cẩm OP.
Cháu mong manh
xin phép cải soạn thêm bớt theo ý mình.
Irénée đã nói về Đức Kitô rằng :
"Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành
như Người".
Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong
Con Thiên Chúa nhập thể sao?
Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm
biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết :
"Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa".
Trong bài giảng về người anh mình là Césare, Grégoire đã
nói :
"Tôi phải được chôn cùng với Đức Kitô, tôi phải trở
thành con Thiên Chúa, tôi phải trở thành Thiên Chúa" (Oratio
7,23).
Một vài tác giả tu đức đã nối gót theo khi bảo rằng người
tín hữu nào sống đạo đều phải "đánh mất bản thân mình trong Chúa như giọt nước tan trong biển".
Nhà
thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học của ông, " Mysterium
Salutis", đã viết :
"Thiên Chúa
làm người để con người được trở nên Thiên Chúa", để con người
trở thành con Thiên Chúa
–
với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và
trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên
Chúa..." ( 2 Pt
1, 4).
CHÚA LÀM NGƯỜI.
Lời
đã làm người, và trong suốt ba mươi năm trước khi công khai loan báo Tin Mừng,
Đức Giêsu đã chỉ làm người, giống như mọi người trong mọi sự, ngoại trừ tội
lỗi, và sống như mọi người.
Trong
khi người Do thái chờ đợi một Đấng Kitô, mà họ nghĩ rằng phải là Đấng bí mật,
khác người, “chẳng
ai biết Người xuất thân từ đâu cả”
(Ga 7,27), thì Đức Kitô lại đến như một người bình thường, ai cũng
biết cả khi họ chỉ thấy một “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Gioxê,
Giuđa và Simon” (Mc
6,3).
Vì
thế Máccô nói : “Và
họ vấp ngã vì Người” (id). Vấp ngã theo nghĩa là họ lấy làm chướng,
không thể chấp nhận một con người tầm thường như thế mà lại có thể là Đấng
Kitô.
Phản
ứng của người Do thái xưa kể cũng dễ hiểu. Thiên hạ không tự nhiên tìm đến và
hoan hô, và càng không thể tin tưởng vào một người mà mình thấy quá tầm thương,
lý lịch chẳng có gì vượt trội : không học hành gì (Ga 7,15), chẳng tiếng tăm, tài
giỏi, cũng chẳng có địa vị hay giàu sang. Người ta kể lại rằng lần đầu tiên
Thánh Gandhi được mời sang Anh Quốc, với tư cách là nhà lãnh đạo tinh thần vĩ
đại của An độ, Mahâtma, ông đã bị nhiều
người dân Anh lấy làm chướng tai gai mắt, khi thấy ông chỉ mang vỏn vẹn một cái
khố quấn ngang hông ! Một người tiếng tăm lừng lẫy như thế mà còn bị coi khinh,
chỉ vì không chịu ăn mặc sang trọng, phương chi là bác thợ Giêsu ở Nadarét !
Xưa
nay trong lịch sử các tôn giáo, người ta luôn luôn muốn cho các thần linh phải
thật uy nghi
sáng láng, cao sang vĩ đại, nên mặc cho các tượng thần những áo mão dát vàng, đính kim
cương, và đặt ngự trên những ngai vàng, những toà cao, bệ thờ, với
đèn hoa sáng rực… Còn các vua chúa và những người lãnh đạo các dân các nước thì
phải ăn mặc sang trọng hơn người. Thậm chí đến các tộc trưởng hay tù trưởng của
những bộ lạc bán khai, cũng trang điểm
cho mình những chiếc lông chim quí hiếm trên mũ đội đầu, để chứng tỏ quyền uy
của mình.
Nhưng
Đức Giêsu thì chỉ làm người như mọi người, không tìm cách sống khác ai. Chính
Người đã nói về mình :
“Ong Gioan Tẩy Giả
đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : ‘Ong ta bị quỉ ám’. Con
người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu,
bạn bè với quân thu thuế và phương tội lỗi.” (Lc 7,33-34).
Hơn
thế nữa, Đức Giêsu còn là một người thích đi hết làng này đến làng khác, thành
này đến thành nọ (x.Lc 4,43; 8,1), lang thang không có chỗ tựa đầu (x.Lc 9,58)
ĐỂ NGƯỜI LÀM CHÚA.
Chúa
làm người để người làm Chúa. Đây không phải là
chuyện phạm thượng hay chuyện kiêu ngạo nhưng
chuyện thật của những người đã một lần hoán cải biến đổi làm đảo lộn cuộc sống
để có thể âm thầm cảm nhận:
“Không phải tôi
sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Đây
là chuyện của những con người bị chiếm đoạt, bị nắm bắt (Pl 3,12) ;
chuyện
của những con người có lòng tin sâu xa, của các nhà thần bí, của những con người
chiêm niệm thật sự.
Đặc
biệt khi ta rước Mình và Máu Đức Kitô thì Mình Máu Người tan chảy và luân lưu
trong máu thịt của ta. Đến nỗi có ta thể nói được là Chúa trở nên ta, ta trở nên Chúa (hai trong
một),
Nhưng
vấn đề là: ta có sống như Chúa đã làm người không ?
Đấy
mới là vấn đề.
NHƯ CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI
“Anh em gọi Thầy là
‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy,
nếu Thầy là Chúa. là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau.” (Ga 13,13-14).
Đó
là những lời rõ ràng và đầy đủ nhất cho thấy lập trường và thái độ của Đức
Giêsu : Người ý thức rõ rệt mình là Chúa, là Thầy, những không xử sự như một vị
Chúa hay một bậc thầy, mà lại như một người tôi tớ.
Nếu
Đức Giêsu làm người, nhưng vẫn đóng vai trò Chúa và Thầy, bắt mọi người phải
tôn kính, hầu hạ và vâng phục tuyệt đối, thì đó là chuyện bình thường, và sẽ
chẳng có ai thắc mắc hay lên tiếng phản đối. Bởi vì như chúng ta vừa trích dẫn
trên đây, Đức Giêsu nhận xét : “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm
quyền thì tự xưng là ân nhân.”
(Lc 22,25).
Ngày
nay chúng ta thường xử dụng động từ “phục vụ”
thay thế cho động từ “hầu hạ”
: vua quan, nhà lãnh đạo “phục vụ” nhân dân, và nhân dân “phục vụ” nhà nước,
phục vụ các nhà lãnh đạo. Nghe thì có vẻ dân chủ thật đấy, nhưng thực tế thì “con vua thì lại
làm vua, con sãi chùa thì quét lá đa” : người đầy tớ “phục vụ” theo
cung cách hầu hạ, còn người làm vua quan, làm nhà lãnh đạo thì “phục vụ” theo
cung cách “chỉ
tay năm ngón” !
Người
đầy tớ thì nấu nướng, quét nhà, giặt ủi quần áo cho chủ ; còn chủ thì khá lắm
có thể đôi khi tự nấu nướng, quét nhà, giặt ủi quần áo cho mình, nhưng không
bao giờ làm những công việc ấy cho người đầy tớ !
Khi
Đức Giêsu quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Người đã thực sự làm công việc của
người đầy tớ đối với chủ. Vậy nếu như Người đã nói với các môn đệ :
Vậy, nếu Thầy là là
Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho
nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh
em.” (Ga 13,14-15),
nếu
như vậy, thì không những chúng ta phải nói rằng, ngày nay, người Kitô hữu nói
chung, và các người có chức vụ trong Giáo hội nói riêng phải “làm chúa” như
Chúa đã làm tôi, nghĩa là
hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Chuyện
Đức Giêsu Kitô “vốn
dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7)
thánh
Phaolô đã khẳng định gần 2000 năm rồi, không cần phải nhấn mạnh thêm.
Ngày
nay, trong thời đại dân chủ, có lẽ Chúa cũng chẳng đòi hỏi chúng ta phải làm nô
lệ để hầu hạ ai, nhưng điều chắc chắn, là Người không thể chấp nhận thái độ
quan liêu phong kiến, cung cách thống trị như vua chúa của những người trong
Giáo hội.
Nói
thế không có nghĩa là Người muốn dẹp bỏ quyền bính, và muốn cho Giáo hội của
Người thành một nhóm người sống vô tổ chức. Trái lại, chính Người đã lập ra Hội
Thánh, và trao quyền lãnh đạo Hội Thánh của Người cho ông Phêrô (x.Mt
16.18-19),
chỉ
khác có một điều, là Người xác định rõ cách thức mà các môn đệ phải thi hành quyền bính, đó là phải hầu hạ mọi người :
kẻ làm đầu phải hầu
thiên hạ (x. Mc 9, 235; Lc 22,25-27).
Đức
Giêsu không thay đổi những mối tương quan gia đình, xã hội; Người cũng không
chủ trương xoá bỏ mọi trật tự thiên nhiên và bình thường trong xã hội, cho nên
cha mẹ vẫn là cha mẹ, con cái vẫn là con cái; vua vẫn là vua, người lãnh đạo
vẫn là người lãnh đạo, và người dân vẫn là dân, không có chuyện thay ngôi đổi chủ,
chỉ khác một điều là cha mẹ không nên lấy quyền, mà thống trị con cái, nhưng là
lấy tình thương mà phục vụ chúng.
Lời
thánh Phêrô nhắn nhủ các bậc kỳ mục có thể áp dụng cho tất cả những ai làm cha
làm mẹ, hay người lãnh đạo : “Đừng lấy quyến mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao
phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” (1 Pr
5,3).
Thánh
Phaolô còn lấy tinh thần của Chúa Kitô mà biến đổi cả bản chất của mối tương
quan giữa ông chủ và người nô lệ, khi gửi trả lại Onêximô cho Philêmôn, với
những lời dặn dò : “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại
nó vĩnh viễn, không phải được lại người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ,
thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với
anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em
trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin hãy đón nhận nó như
đón nhận chính tôi.” (Plm 15-17).
Đáng
lẽ Phaolô phải nói : “Xin anh đón nhận anh ấy như đón
nhận chính Chúa Kitô” ! Điều tuyệt vời trong cái nhìn Kitô giáo là ở chỗ
ấy : trong Chúa Kitô, không còn có Do thái hay Hy lạp, chủ, tớ, kẻ thống trị
với người bị trị, mà chỉ còn là những người anh em (x.Gl 3,28), và mọi người đón nhận và yêu thương nhau như đón
nhận và yêu thương chính Chúa Kitô.
NHƯNG CON NGƯỜI
LẠI BẮT CHÚA PHẢI GIỐNG NHƯ MÌNH.
Kể
từ khi con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), thì sau
đó, qua mọi thời và mọi nơi, qua mọi tôn giáo, con người không ngừng nắn đúc, tạc, đẽo hay vẽ Thiên Chúa
giống hình ảnh của chính mình !
Trong Cựu ước,
ngay trong những câu chuyện như Cain và Abel (St 4,1 tt), người ta đã tả Thiên Chúa y như
một con người với đầy đủ thất tình lục dục:
Thiên
Chúa là một Đấng bất công, vì thích thịt mỡ nên đoái nhận của lễ
Abel dâng tiến, mà chê không nhận của lễ
Cain dâng, là hoa màu ruộng đất ! Cain làm ruộng thì chỉ có thể dâng những gì
do tay mình làm ra, anh ta có làm điều gì mất lòng Chúa đâu !
Trong
truyện hồng thủy (St 6-8), chúng ta đọc thấy Thiên Chúa
hối hận vì đã dựng nên con
người, trong khi mà trong chương 1, câu 31 nói : Thiên Chúa thấy mọi sự người
đã dựng nên là rất tốt đẹp, và đặc biệt là Người đã chúc phúc cho con người
(x.St 1,28).
Vậy
mà rồi Thiên Chúa đã giận dữ
tiêu diệt cả loài người, nhưng sau đó, chỉ vì ngửi thấy mùi thơm ngon của thịt
mỡ ông Nôê dâng lên, lại hứa không bao giờ làm lại điều vừa mới làm, là tiêu
diệt mọi sinh vật (St 8,21). Hoá ra Thiên Chúa chẳng phải đã trở nên bất nhất, hơi tí thì giận dỗi, nhưng cũng rất thay
lòng đổi dạ chỉ vì chút thịt mỡ dâng lên ?
Mà
thử hỏi Thiên Chúa sao lại có thể ăn hay ngửi được mùi thịt mỡ ?
Chẳng
qua là con người đã “suy bụng
ta ra bụng Chúa” đó thôi.
Thay
vì cố gắng làm sao phản ánh được hình ảnh Thiên Chúa, con người lại không ngừng
bắt Thiên Chúa phải giống như mình, nghĩa là có
những đặc tính xấu xa,
như giận dỗi,
thiên vị, độc ác, tham ăn vv, !
Trên
lý thuyết, thì đa số người Công giáo chúng ta đều biết rằng Cựu ước chỉ là hình
bóng của Tân ước, do đó hình ảnh Thiên Chúa
được tả trong đó không đương nhiên trung thực so với Thiên Chúa là Cha, mà Đức
Giêsu mặc khải cho chúng ta. Tuy nhiên, có khi vì lười biếng không chịu suy
nghĩ, hay vì thói quen, chúng ta thường đồng hoá dễ dàng mọi hình ảnh Thiên
Chúa của Cựu ước với Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu. Vì thế chúng ta có thể “vô
tư” cầu nguyện với những câu Thánh vịnh như :
“Lạy Chúa,
xin nhớ lại ngày
Giêrusalem thất thủ,
để trừng phạt con
cái Ê-đom.
Ngày ấy chúng reo
hò ;
Phá nó đi, cho bình
địa.”
Gái Babylon hỡi, đồ trời tru đất diệt !
Phúc thay người xử
với mi
Như mi đã xử với ta !
Phúc thay người bắt những con thơ của mi
Mà đem đập đầu vào
đá.” (Tv 136,7-9)
Những
câu Thánh vịnh tương tự như vậy vẫn còn được đọc trong Phụng vụ mãi cho đến
Công đồng Vaticanô II, sau đó mới bị cắt bỏ. Hồi còn là chủng sinh, tôi thắc
mắc hỏi các đấng rằng : Chúa dạy chúng ta phải yêu thương tha thứ cho kẻ thù,
thế tại sao Giáo hội lại nguyền rủa quân thù một cách độc ác như vậy ?
Có
đấng giải thích cho tôi rằng đó không phải là lời của Giáo hội, nhưng là Đức
Giêsu nguyền rủa quân thù !
Lời
giải thích càng làm cho tôi thắc mắc thêm, vì Đức Giêsu có coi ai là thù địch
bao giờ ?
Còn
như ngay cả hiện tại, sau khi đã cắt bỏ những câu Kinh Thánh có tính phản Kitô giáo, chúng ta vẫn còn đọc được trong
Phụng vụ những câu rơi rớt còn sót lại, mà nếu đặt vào trong bối cảnh của Tin
Mừng, thì khó có thể chấp nhận, chẳng hạn như chúng ta đọc trong Thánh vịnh
135,10:
“Người sát hại các
con đầu lòng của Ai cập.
Muôn ngàn đời Chúa
vẫn trọn tình thương.”
Quả
thật, nếu là dân Do thái, thì lời cầu nguyện đó rất “hợp tình hợp lý”, rất
chính thống vì phù hợp với quan niệm về Thiên Chúa của họ, bởi vì Thiên Chúa của Cựu
ước vốn là một Thiên Chúa thiên vị, chỉ chọn có một mình dân Do
thái, phù trì, bênh đỡ một mình họ, mà ghét bỏ, loại trừ các dân khác.
Thiên
Chúa của người Do thái Cựu ước là Thiên Chúa phục thù báo oán, nên họ mới cầu xin Chúa : “Lạy Chúa, kẻ láng
giềng chúng con đã lăng nhục Chúa, xin trả báo cho bản thân chúng đến bảy lần.”
(Tv 78,12),
không
những thế, họ còn cầu xin Chúa khai trừ khỏi dương gian
hết mọi thù địch của họ (Tv 16,14), phanh thây chúng làm mồi cho muông sói (Tv 62,11)…
Nhưng Thiên Chúa
của Đức Giêsu không giống như Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Người là Cha nhân từ (x.Lc 6,36), vì thế
Người yêu thương tất cả mọi người, và “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và
cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 6,45).
Khi
so sánh đoạn sách ngôn sứ Isaia (61,1-2)
mà Đức Giêsu trích dẫn, trong Tin Mừng của Luca (4.18-19), chúng ta để ý thấy Đức Giêsu ngừng ở câu :
“công bố một năm hồng ân của Đức Chúa”,
trong
khi đó, nguyên văn Is 61, 2 còn thêm câu: “một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.”
Cái
nhìn phổ cập, nếu có, của một ngôn sứ như Isaia, thì cũng vẫn còn là về một thế
giới được qui tụ về đền thờ trên núi thánh Giêrusalem, bởi vì chính “từ Xion, thánh
luật ban xuống, từ Giêrusalem, lời Chúa phán truyền.” (Is 2,3),
chính tại Giêrusalem mà Thiên Chúa sẽ “đứng làm trọng tại giữa các quốc gia và phân xử cho muôn
dân tộc.” (2,4).
Còn
đối với Đức Giêsu, thì Thiên Chúa không còn là Đấng bị đóng khung trong đền thờ hay
trên núi Xion :
Người
là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước, chứ không còn của riêng một dân tộc nào, cho dù là Israel . Vì thế,
người ta không còn phải đến Garizim hay Giêrusalem để thờ phượng Người, mà là
thờ phượng Người “trong
thần khí và sự thật” (Ga 4,21-23),
và
bàn tiệc cánh chung sẽ được mở ra để thết đãi mọi người, không phải trên núi
Xion, mà cho cả những kẻ lang thang ở ngã ba ngã tư đường phố, bất cứ nơi nào,
thậm chí “bất
luận tốt xấu”, miễn là họ biết ứng xử hợp thời, là khoác trên mình
bộ áo cưới (x. Mt 22,1 tt).
Thiên
Chúa của Đức Giêsu cũng không phải là Thiên Chúa đành
hanh, độc đoán “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên”, “bắt phải nghèo và cho
giầu có”, “hạ xuống thấp” rồi cũng “nhấc lên cao” (1Sm 2,6-7),
mà
chính Người đã sai Con của Người đến “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự” (Pl 2,8) để nâng mọi kẻ sa ngã lên, và lôi kéo mọi
người đến với mình (Ga 12,32).
Thiên
Chúa của Đức Giêsu chỉ có thể là Thiên Chúa Cứu Độ, “bởi, Chúa luôn từ ái một niềm ơn cứu chuộc
nơi Người chan chứa” (Tv 129,7), và Danh Người cho đến muôn đời vẫn
là Thiên Chúa Tình Yêu (x. 1 Ga 4,8.16) : một tình yêu đi tới tận cùng (x.Ga
13,1) là hy sinh tính mạng vì bạn hữu (Ga 15,13), và hy sinh để họ “được sống dồi dào” (x.Ga 10,10).
Theo
tôi nghĩ, có lẽ vì ảnh hưởng những câu kinh của Cựu ước còn sót lại khá nhiều
trong Phụng vụ, đại loại như vừa trích dẫn trên đây, mà thực chất có tính “phản Kitô giáo”, nghĩa là trái ngược hẳn với tinh thần
Chúa Kitô, nên nhiều người Kitô hữu vẫn đồng hoá một cách đơn thuần Thiên Chúa
Cha mà Đức Giêsu mặc khải, với Thiên Chúa của người Do thái, và do đó, coi Thiên Chúa là Thiên Chúa riêng của mình, Thiên
Chúa mà người Kitô hữu độc quyền chiếm hữu, và cậy vào Người để tự cao tự đại,
tìm mọi cách, nếu không phải là tiêu diệt, thì ít ra cũng loại trừ các “dân
ngoại”, và tìm cách khuất phục để thống trị họ.
Gioan
Tẩy Giả vẫn còn hù dọa : Rìu đã kề gốc cây, gạo thóc nằm trên nia sàng sẩy, cá
đã nằm trên thớt... có mà chạy đàng trời !
Các
ông tông đồ đã xin lửa thiêu đốt dân làng không
chịu đón tiếp ; các ông muốn được ngồi bên tả bên hữu để cai trị, và tranh dành
vị trí thấp cao. Trước khi Đức Giêsu về trời, đến lúc này mà các ông còn hỏi :
Thầy khôi phục nước Itraen ?
Nhưng
Đức Giêsu thì lại tuyên bố rõ ràng là : “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là
để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28),
và
trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Người còn căn dặn các ông : “Vua các dân thì
dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền
thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại,
ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu
thì phải nên như người phục vụ.” (Lc 22,25-26).
Cung
cách sống và xử sự của Giáo hội phương Tây ở thời Trung cổ, và thái độ của khá
nhiều người Kitô hữu, đặc biệt là của hàng giáo sĩ ở nhiều nơi trên thế giới
ngày nay, nhất là tại những nước nghèo, cho thấy dấu
vết quan liêu phong kiến vẫn chưa phải là đã bị loại trừ.
Hình
như vẫn không thiếu những người Kitô hữu đơn sơ cho rằng Giáo hội chỉ có thể
diễn tả mầu nhiệm vinh quang Thiên Chúa và quyền năng của Người, bằng chính
chính vinh quang, mà cụ thể là sự giàu
sang của Giáo hội, và bày tỏ quyền
năng Thiên Chúa bằng uy quyền của Giáo hội, mà cụ thể là quyền bính của hàng
giáo sĩ !
Điều
đó chứng tỏ rằng nhiều người Kitô hữu, nhất là những người có chức quyền, vẫn
thích “làm chúa” theo nghĩa thế gian, chứ không
theo gương, và theo đòi hỏi của Đức Giêsu, nghĩa làm “làm
chúa” như Chúa đã làm người.
KẾT LUẬN
Khi
làm người, Chúa trở nên đồng hàng với nhân loại, và như vậy là cho con người
được nên ngang hàng với mình. Nói cách khác, Chúa làm người để người làm chúa.
Làm
chúa có nghĩa là làm chủ chính bản thân mình, không
phải làm nô lệ cho bất cứ ai, cho dù là nô lệ của Thiên Chúa,
bởi vì Đức Giêsu đến trần gian chính là
để giải phóng và đem lại tự do cho con người (x.Ga 8,32-36).
Vì
thế con người, trong cái nhìn Kitô giáo, không phải là kẻ vong thân, đánh mất
chính mình, hoàn toàn nô lệ cho thần thánh,
cho Thượng Đế.
Con người Kitô hữu trước hêt là một con người tự
do, bởi vì được trở nên con cái Thiên Chúa,
đồng dạng đồng hình với Chúa Kitô, Con Thiên
Chúa làm người.
Với tư cách Con Thiên Chúa
làm người, Đức Giêsu đã sống kết hiệp với Chúa Cha: “Anh không tin
rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với
anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. (Ga 14:10)
Cũng với tư cách Con Thiên
Chúa làm người, Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta tới cùng và phục vụ
chúng ta như một người đầy tớ.
Thế thì chúng ta muốn là “người làm Chúa” thì chỉ còn cách sống như Đức Giêsu đã sống:
Kết hiệp nên một với Chúa
và yêu thương phục vụ
anh em như Đức Giêsu, anh Cả của một đàn em đông đúc.
Leave a Comment